Cà gai leo
Tên tiếng Việt: Cà gai leo, Chẽ nam (Tày), Cà gai dây, Cà quýnh, Cà quạnh, Brong goon (Bana), Gai cườm.
Tên khoa học: Solanum hainanense Hance.
Họ: Solanaceae (Cà).
Công dụng: Chữa tê thấp, đau nhức xương khớp, phù thũng, ho gà, rắn cắn, viêm gan, giải độc gan, mụn nhọt, lở ngứa (Rễ sắc uống).
Mô tả
- Cây nhỏ leo, sống nhiều năm, dài khoảng 1m hay hơn. Thân hóa gỗ ở gốc, nhẵn, phân cành nhiều; cành non tỏa rộng, phủ lông hình sao và rất nhiều gai cong màu vàng.
- Lá mọc so le, hình bầu dục hay thuôn, gốc tròn hoặc hình nêm, đầu tù; phiến lá to có thùy nông không đều, mặt trên sẫm, mặt dưới nhạt phủ đầy lông tơ màu trắng; hai mặt đều có gai ở gân chính nhất là mặt trên; cuống lá cũng có gai.
- Hoa màu trắng hoặc hơi phớt tím mọc thành xim 2 – 5 hoa ở kẽ lá, ít khi 7 – 9; đài có lông, xẻ thành 4 thùy hình trái xoan nhọn; nhị màu vàng, chỉ nhị phình ở gốc.
- Quả mọng, hình cầu nhẵn, có cuống dài, màu vàng, khi chín màu đỏ, đường kính 5 – 7 mm; hạt hình thận màu vàng.
- Mùa hoa: tháng 4 -6; mùa quả: tháng 7 -9.
Cây dễ nhầm lẫn
Solanum thorelii Bonati., cùng họ Cà. Cây này rất giống cà gai leo, chỉ khác là cụm hoa đơn độc, hoa mẫu 5, dài có gai, tràng màu trắng.
Quả màu lục điểm trắng, khi chín vàng hay đỏ, đường kính 1.2 – 1.5 cm.
Phân bố sinh thái
Cà gai leo là cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, thường mọc tập trung nhiều cá thể, lẫn trong các lùm bụi thưa quanh làng, bãi hoang, kể cả các bụi tre gai. Cây mọc ở chỗ nhiều ánh sáng, sinh trưởng phát triển tốt, ra nhiều hoa quả. Cà gai leo có khả năng tái sinh từ hạt hoặc từ các phần thân và gốc còn lại sau khi chặt. Ngoài ra, từ các đoạn thân và cành trồng vào mùa xuân cũng có thể mọc thành cây mới.
Cà gai leo phân bố chủ yếu ở một vài nước nhiệt đới Châu Á như Campuchia, Thái Lan, đảo Hải Nam – Trung Quốc. Tại Việt Nam, vùng phân bố cà gai leo tương đối phong phú, trải dọc khắp các tỉnh ven biển từ Hải Phòng đến Bình Thuận. Đặc biệt, tổng sản lượng của các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào có thể đạt vài chục tấn nguyên liệu mỗi năm.
Cách trồng Cà gai leo
Cà gai leo có thể được nhân giống bằng hạt, giâm cành, hoặc bằng công nghệ sinh học. Hạt cà gai leo tuy dễ nảy mầm, nhưng hệ số nhân giống không cao do cây ít quả, quả nhỏ và ít hạt. Hơn nữa, cây nhân giống bằng hạt có chất lượng không đồng đều, gây khó khăn cho việc tiêu chuẩn hóa nguyên liệu. Nhân giống bằng giâm cành cho hệ số nhân thấp và lại phải sử dụng chính nguyên liệu để nhân giống. Cây nhân giống bằng công nghệ sinh học có hệ số nhân khá hơn, chất lượng dược liệu đồng đều nhưng giá thành hơi cao. Phương hướng chung là sử dụng phương pháp giâm cành và công nghệ sinh học để nhân nhanh giống, chọn lọc tạo ra một lượng giống nguyên chủng cần thiết, sau đó dùng phương pháp nhân giống bằng hạt để cung cấp cây con cho sản xuất.
Thời vụ gieo hạt tốt nhất là tháng 2-3. Hạt nảy mầm sau 7-10 ngày. Hạt có thể gieo trong vườn ươm, khi cây con cao 10 – 12 cm thì đánh đi trồng, hoặc gieo thẳng theo hốc, mỗi hốc 3 -4 hạt. Khi cây cao 7 – 10 cm thì tỉa bớt, mỗi hốc giữ lại 1 cây khỏe mạnh nhất. Nếu giâm cành thì vào tháng 2 – 3, chọn cành bánh tẻ chặt thành đoạn dài 12 – 15 cm, giâm vào bầu và tưới ẩm thường xuyên. Khi cây mọc chuyển trồng ra ruộng (chú ý hủy bầu). Tuy nhiên, chỉ nên sử dụng phương pháp nhân giống bằng công nghệ sinh học trong các cơ sở nghiên cứu tạo giống ban đầu.
Đất trồng cà gai leo là nơi nhiều mùn, thoát nước. Sau khi cày bừa kỹ, để ải, cần bón lót 10 -15 tấn phân chuồng hoai mục, 100 – 150 kg phân lân, 50 – 70 kg kali cho mỗi hecta và lên luống cao 25 – 30 cm, rộng 70 – 80 cm. Cây trồng hoặc gieo thẳng đều định khoảng cách 50 x 50 cm.
Cà gai leo chịu hạn khá tốt, nhưng muốn có năng suất cao vẫn cần tưới đủ ẩm thường xuyên. Mỗi tháng làm cỏ, xới xáo một lần , kết hợp bón thúc bằng nước phân chuồng, nước giải hoặc đạm pha loãng (2%).
Bệnh hại đáng kể đối với cà gai leo là rệp bột (Pseudococcus sp.). Có thể trừ diệt bằng cách phun Bitox 40 EC theo hướng dẫn ghi trên nhãn. Tuy nhiên, cà gai leo được trồng theo tiêu chuẩn GACP-WHO sẽ không được phép sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình canh tác.
Bộ phận dùng
Rễ và cành lá cà gai leo, thu hái quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ, phơi hay sấy khô. Có khi dùng tươi.
Thành phần hóa học
Theo Đỗ Tất Lợi, toàn cây và nhiều nhất là rễ CGL chứa alcaloid, tinh bột, saponosid, flavonoid.
Rễ và lá cà gai leo chứa cholesterol, β – sitosterol, lanosterol, dihydrolanosterol; alcaloid mới là solasodenon; hai aglycon là solasodin và neochlorogenin. Ngoài ra, rễ còn chứa 3β – hydroxyl – 5α – pregnan – 16 – on. Khi thủy phân dịch chiết rễ, phần đường thu được gồm D-glucose, D-galactose, L-rhamnose (Hoàng Thanh Hương).
Theo Dictionary of Natural Products on CD-ROM (1997) và Trung dược từ hải (1997), Cà gai leo có chứa solasodenon và 3β – hydroxyl – 5α – pregnan – 16 – on.
Tác dụng dược lý của Cà gai leo
Phản ứng viêm:
Trong mô hình gây phù thực nghiệm chân chuột bằng kaolin tạo nên giai đoạn cấp tính của phản ứng viêm tương ứng với những biến đổi về mạch máu gây thoát huyết tương ở khoảng ngoài tế bào, rễ và thân lá cà gai leo có tác dụng ức chế phù rõ rệt (rễ với liều 13.5/ kg và thân lá với liều 22.5 kg trở lên).
- Đối với giai đoạn bán cấp của phản ứng viêm tương ứng với sự tạo thành tổ chức hạt, trong mô hình gây u hạt thực nghiệm với amian, rễ và thân lá cà gai leo có tác dụng ức chế rõ rệt (rễ với liều từ 5g/kg và thân lá từ 10g/kg chuột trở lên).
Tác dụng miễn dịch:
- Tuyến ức có vai trò quan trọng trong sự hình thành hệ thống miễn dịch của cơ thể, rễ và thân lá cà gai leo có tác dụng gây thu teo tuyến ức chuột cống non rõ rệt (rễ với liều 7.5 g/kg và thân lá với liều 15g/kg chuột trở lên)
Tác dụng gây độc:
Chỉ số tán huyết của rễ cà gai leo xác định bằng phương pháp Brunel là 13. Cà gai leo tỏ ra không độc trong thí nghiệm về độc tính cấp và bán cấp.
Sơ bộ nghiên cứu định lượng sinh học hoạt lực chống viêm cho thấy1 g rễ cà gai leo khô tương ứng với 2.5 mg hydrocortisone, và 1 g thân lá cà gai leo chứa 1.3 mg hydrocortisone.
- Đã nghiên cứu tác dụng bảo vệ của rễ cây cà gai leo chống độc lực của nọc rắn Cobra trên chuột nhắt trắng và thấy cà gai leo có tác dụng bảo vệ chuột thí nghiệm chống độc lực của liều cao nọc rắn, làm tăng một cách có ý nghĩa tỷ lệ chuột sống sót so với chuột đối chứng không uống cà gai leo.
Tác dụng chống co thắt phế quản:
- Đã nghiên cứu thăm dò khả năng chống co thắt phế quản của cà gai leo bằng phương pháp khí dung histamin của Armitage và thấy cà gai leo có tác dụng kéo dài thời gian chịu đựng của chuột được uống thuốc và đặt trong buồng khí dung, làm thời gian triệu chứng khó thở xuất hiện chậm hơn so với chuột đối chứng không uống cà gai leo.
Tác dụng ngăn chặn xơ gan trên mô hình thực nghiệm:
Việc nghiên cứu thăm dò khả năng ngăn chặn tiến triển xơ gan của cà gai leo trên mô hình thực nghiệm của Maros cho thấy sau 3 tháng gây xơ gan trên chuột cống trắng, xơ gan hình thành rõ rệt, thể hiện trên các chỉ tiêu hóa sinh và tổ chức học của gan.
- Cà gai leo với liều cho uống ngày 6g/kg thể trọng chuột, tuy không ngăn chặn được hoàn toàn quá trình xơ hóa, nhưng có tác dụng làm chậm sự tiến triển của xơ.
- Hàm lượng collagen trong gan ở lô chuột dùng cà gai leo chỉ bằng 71% so với lô chuột chứng gây xơ không dùng thuốc.
- Về mặt tổ chức học, thí nghiệm cho thấy toàn bộ chuột chứng gây xơ đều bị xơ nặng hoặc vừa, còn ở lô dùng cà gai leo hầu hết chỉ xơ nhẹ hoặc không xơ.
Tính vị công năng
Cà gai leo có vị hơi the, tính ấm, chứa lượng độc tố không đáng kể nên đảm bảo an toàn khi dùng, có tác dụng tiêu độc, phát tán, trừ ho, cẩm máu, giảm đau, trừ phong thấp, trị thoái hóa xương khớp.
Công dụng của Cà gai leo
Cà gai leo là cây thuốc nam có rất nhiều công dụng tốt với sức khỏe, chẳng hạn như:
– Giải độc gan: Dịch chiết cà gai leo có tác dụng bảo vệ gan khỏi chất độc bằng cách kích thích quá trình bài tiết và chuyển hóa các chất độc hại trong gan, từ đó ngăn chặn tổn thương nhu mô gan, giúp bảo tồn cấu trúc tế bào gan.
– Ức chế xơ gan, hỗ trợ điều trị viêm gan B: Hoạt chất glycoalcaloid trong cà gai leo có khả năng ức chế sự nhân lên của virus viêm gan B, giảm nồng độ virus này trong máu đồng thời kích thích phục hồi tế bào gan. Không những vậy, hoạt chất glycoalcaloid còn có tác dụng kháng viêm, chống oxy hóa, ngăn chặn hình thành các sợi collagen trong gan từ đó ức chế xơ gan hiệu quả.
– Trị rắn cắn: Các hoạt chất có trong rễ cà gai leo có tác dụng tiêu độc, giảm nguy cơ nhiễm trùng và biến chứng do rắn cắn.
– Chữa hen suyễn, ho gà: Dịch chiết cà gai leo có khả năng làm ổn định tế bào mast, hạn chế sản xuất các chất trung gian gây co thắt đường thở, từ đó giảm các triệu chứng hen phế quản, ho gà
– Chữa phong thấp: Trong rễ và dây cà gai leo có chứa các thành phần như alkaloid, tinh bột, flavonoid nên có tác dụng rất tốt trong chữa phong thấp, đau nhức gân xương.
– Chữa cảm cúm: Hoạt chất flavonoid và alkaloid trong cà gai leo có khả năng chống viêm, kháng khuẩn tốt nên có thể sử dụng để chữa cảm cúm.
– Chữa dị ứng: Cà gai leo giúp ức chế sự phân hủy của tế bào mast, điều chỉnh sự giải phóng của các interleukin, từ đó giúp kiểm soát dị ứng cùng các tình trạng viêm nhiễm khác
– Phòng chống ung thư: Hoạt chất glycoalkaloid trong cà gai leo có tính chống oxy hóa mạnh, giúp bảo vệ tế bào khỏi sự tấn công của các gốc tự do, từ đó phòng chống nguy cơ ung thư.
Ngoài công dụng trên, cà gai leo còn được nhân dân ở một số nơi dùng chữa say rượu. Người ta cho rằng trong sau khi uống rượu, thỉnh thoảng xát răng bằng rễ cà gai leo thì tránh được say. Nếu đã bị say, uống nước sắc của rễ.
Bài thuốc dân gian có Cà gai leo
Chữa viêm gan B, xơ gan, giải độc gan:
Dùng 35g rễ hoặc thân lá cà gai leo sắc với 1 lít nước, đến khi lượng nước còn 1/3 thì chia làm 3 phần uống trong ngày
Chữa rắn cắn:
Theo kinh nghiệm dân gian Lào, khi bị rắn cắn mà vết thương sưng tấy, nhức nhối, để cấp cứu kịp thời, có thê lấy 30 – 50 g rễ cà gai leo tươi, rửa sạch, giã nhỏ, hòa với khoảng 200 ml nước đun sôi để nguội, chắt nước cho người bị nạn uống tức thì. Ngày uống 2 lần. Người bị nạn sẽ cảm thấy dễ chịu ngay, bớt đau nhức, ngủ được. Sang ngày sau, tiếp tục cho uống nước sắc rễ cà gai leo phơi khô (10 – 30 g rễ khô, chặt nhỏ, sao vàng, nấu với 600 ml nước còn khoảng 200 ml). Mỗi ngày uống 2 lần. Dùng 3 – 5 ngày là khỏi hẳn.
Với bài thuốc trên, bệnh viện Hưng Nguyên ở Nghệ An đã chữa khỏi hoàn toàn 14 trường hợp bị rắn cắn, trong đó có một vài trường hợp bị nặng.
Chữa tê thấp:
Rễ cà gai leo, rễ thổ phục linh, rễ xích đồng nam, dây chiều, dây gắm, dây mặt quỷ, dây tơ xanh, vỏ thân ngũ gia bì (mỗi thứ 1kg), dây đau xương, cành hoặc lá vông nem (mỗi thứ ½ kg). Tất cả chặt nhỏ, nấu với nước nhiều lần để được 1 lít cao. Thêm 500g đường, cô còn 700 ml . Để nguội. Đổ rượu 30⁰ vào cao cho đủ thành 1 lít. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30 ml. (Kinh nghiệm của hợp tác xã Hợp Châu).
Chữa ho, ho gà:
Rễ cà gai leo (10g), lá chanh (30g). Sắc uống làm 2 lần trong ngày
Chữa phong thấp:
- Rễ cà gai leo, rễ xấu hổ, thổ phục linh, rễ cỏ xước, kê huyết đằng, rễ cỏ tranh, mỗi vị 16 g. Sắc uống.
- Rễ cà gai leo, vỏ chân chim, rễ cỏ xước, dây đau xương, kê huyết đằng, rễ tầm xuân, mỗi vị 20 g. Sắc uống.
- Chữa tê thấp, bàn chân tê buốt, sợ nước, sợ lạnh, khớp xương đau buốt:
- Rễ cà gai leo, rễ lá lốt, quýt rừng, rễ gấc, rễ xuyên tiêu, cốt khí củ, mỗi vị 20 – 30g. Sắc uống.
Chữa sưng mộng răng:
Hạt cà gai leo 4g tán nhỏ, cho vào nồi đồng với một ít sáp ong, đốt lá lấy khói xông vào chân răng (Bách gia trân tàng).
Trị cảm cúm, dị ứng, hen suyễn, đau nhức xương khớp:
Dùng 16 – 20g rễ hoặc thân lá cà gai leo dưới dạng thuốc sắc, uống trong ngày.
Phòng ung thư:
Cà gai leo 30g, diệp hạ châu 10g, dừa cạn 10g, mỗi ngày sắc uống 1 thang, liên tục từ 10-30 ngày.
Giải rượu:
- Sắc 100g cà gai leo khô với 400ml nước đến khi cạn còn 150ml. Dùng uống trong ngày khi còn ấm
- Hãm 50g cà gai leo khô với nước sôi như trà, xong lấy cho người say rượu uống đến khi tỉnh.
Nguồn: Cuốn Danh Lục Cây Thuốc Việt Nam, Cây Thuốc Và Động Vật Làm Thuốc
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐÔNG Y DƯỢC QUANG MINH
- Địa chỉ: Liên Bạt, Ứng Hoà, Hà Nội
- Điện thoại:1900 636 891
- Email: DongYDuocQuangMinh@gmail.com
- Website: DongYQuangMinh.vn