Tên gọi khác: Cúc ba gân, sơn bạch cúc, nam tử uyển.
Tên khoa học: Aster trinervius Roxb.
Tên đồng nghĩa: Aster ageratoides Turcz var. trinervius H.M.
Họ: Cúc (Asteraceae)
Công dụng: chữa các bệnh về phổi như ho, ho nhiều đờm, viêm khí phế quản cấp và mạn tính, ho gà. Còn dùng chữa sốt rét, đau bụng cấp.
>>> Xem thêm: Gáo Tròn
1. Mô tả
Cây thảo nhỏ, sống lâu năm, cao 0,4 – 1m, có thể hơn. Thân và cành hình trụ, mọc đứng, phân nhánh ở ngọn, có khía và lông nhỏ.
Lá mọc so le, có cuống ngắn, hình mác, dài 3 – 7 cm, rộng 2,5 – 5 cm, gốc thuôn, đầu có mũi nhọn, gần chính 3, mép có răng thưa. Lá gần ngọn nhỏ và không cuống.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá hay đầu ngọn thành ngữ gồm nhiều đầu xếp thành 2 – 3 cái một, đầu có cuống dài 5 – 8 mm, lá bắc không đều, xếp thành 4 – 5 hàng, có mép mỏng, hoa cái ở vòng ngoài màu trắng hay tím; hoa lưỡng tính ở giữa có ống màu vàng, mào lông có nhiều sợi ngắn; tràng hình lưỡi có ống mảnh; tràng hình ống hơi loe ở đầu, có 5 thuỳ dài, nhị 5, không có tai; bầu thuôn dẹt có lông.
Quả bế, thuôn, dài 2,5 mm, có lông.
Mùa hoa quả: tháng 10 – 12.
2. Phân bố, sinh thái
Chi Aster L. gồm khá nhiều loài, phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới ấm và vùng cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, chi này có 4 loài mọc tự nhiên và 1 – 2 loài khác được nhập trồng làm cảnh.
Loài cúc sao thường gặp ở một số tỉnh miền núi, có độ cao từ 600m đến gần 2000 m (đèo Hoàng Liên Sơn – Sa Pa), thuộc các địa phương như: Cao Bằng (Nguyên Bình, Trùng Khánh); Hà Giang (Phó Bang, Yên Minh, Quản Bạ); Lào Cai (Sa Pa), Sơn La (Quỳnh Nhai, Sông Mã, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu), Điện Biên (Sa Dung – Điện Biên Đồng), Lai Châu (Phong Thổ): Kon Tum (Ngọc Linh – Đăk Glei), Lâm Đồng (Đà Lạt)… Trên thế giới, các sao phân bố ở Ấn Độ, Mianma, Nepan, Trung Quốc, và Nhật Bản.
Cúc Sao là cây ưa sáng, ưa khí hậu mát. Cây thường mọc ở các hốc đá ven rừng. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm, vào khoảng tháng 9 – 11. Tái sinh tự nhiên tốt từ hạt và có khả năng mọc chồi từ các phần còn lại sau khi bị cắt. Ngoài công dụng làm thuốc, cúc sao có thể trồng làm cảnh vì hoa đẹp và cây ra nhiều hoa.
Bộ phận dùng:
Toàn cây, tươi hay phơi khô.
3. Thành phần hoá học
Phần trên mặt đất của các sao có các thành phần sau:
Các diterpen glycosid: 16β hydroxy 17 acetoxy (-) Kauren – 19 oic acid – β – d, glucopyranosyl ester (CA. 1994; 120, 265 775) và 16 β, 17 dihydroxy (-) Kauren – 19 oic acid – β – d, glucopyranosyl ester [Phytochemistry vol.33 – ssue J. 23 July 1993: p. 1181 – 1183].
Các sesquiterpen lacton:
Các hợp chất arteglacin β, diversosid và 2 phenylesthyl beta – D – glucopyranosid, crotocorylifuran, oplopanon.
4. Tác dụng dược lý
Tác dụng chống ho:
Lo chuột được dùng cao cúc sao thời gian chuột ho lâu hơn lô chuột đối chứng không dùng thuốc.
Tác dụng long đờm:
Tiêm dung dịch đó phenol vào trong phúc mạc cho chuột cống trắng. Sau một thời gian, dịch phế quản cũng có đủ phenol. Nếu dịch phế quản tiết ra càng nhiều thì lượng đỏ phenol trong dịch càng nhiều. Định lượng đỏ phenol bằng phương pháp sắc kể. Cao cúc sao với liều uống 0,4 g/kg có tác dụng làm tăng dịch tiết khí phế quản so với lô đối chứng không dùng thuốc. Dịch tiết phế quản nhiều sẽ có tác dụng long đờm [Tài liệu đã dẫn].
Tác dụng giãn phế quản:
Phun sương cho chuột lang bằng một dung dịch histamin với một áp suất hơi hằng định, thì khí quản chuột lang sẽ bị co thắt dẫn đến khó thở, rồi co giật và chết. Cao toàn cây cúc sao với liều uống 0,5 g/kg làm cho thời gian từ khi bắt đầu phun sương đến khi có triệu chứng tiền co giật kéo dài hơn so với chuột đối chứng không dùng cúc sao. Đó là do các sao có tác dụng chống co thắt phế quản [Tài liệu đã dẫn].
Tác dụng trên vỏ thượng thận:
Nước sắc toàn cây cúc sao cho chuột cống trắng uống với liều mỗi ngày tính ra dược liệu khô là 10 g/kg, liền trong 3 ngày, thấy tuyến thượng thận phát triển, khối lượng tuyến thượng thận tăng, công năng của mô tuyến thượng thận tăng làm tăng sức đề kháng của cơ thể [Trung thảo dược học, quyển 2, Giang tô KHKT xuất bản xã, 1980: 1138; theo TDTH, 1993, I: 2426].
5. Tính vị, công năng
Các sao vị đắng, hơi cay, tính bình, không độc; có công năng chỉ khái, hoá đàm, bình suyễn, thông tiểu, tán huyết, dưỡng huyết.
Sách “Triết giang dân gian thường dùng thảo dược” ghi: cúc sao vị đắng, cay, tính mát, có công năng chỉ khái, hoá đàm, thanh nhiệt, tiêu độc [TDTH, 1993, I: 2425].
6. Công dụng
Cúc sao được dùng chữa các bệnh về phổi như ho, ho nhiều đờm, viêm khí phế quản cấp và mạn tính, ho gà. Còn dùng chữa sốt rét, đau bụng cấp.
Do có tác dụng cầm máu, cúc sao được dùng chữa chảy máu mũi, thổ huyết, lỵ ra máu, đái ra máu.
Nhân dân ở huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang dùng cúc sao để chữa đầy hơi. Mỗi ngày dùng 30 – 40g sắc nước uống, chia làm 2 lần.
Để chữa trẻ em bị đơn đỏ chạy khắp người, người lớn bị đơn độc, sưng tấy cơ (như bắp đùi. bắp chân, bắp tay) nóng và đau nhức, lấy toàn cây cúc sao, nấu thành cao, mỗi lần uống tương đương 10g dược liệu khô, ngày 2 – 3 lần.
Ở Trung Quốc, toàn cây cúc sao còn được dùng để điều trị viêm phế quản mạn tính. Thuốc được chế thành viên, mỗi viên có 0,5g cao khô chiết bằng nước. Mỗi lần uống 1 viên, ngày 3 lần.
Nguồn: Theo Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
>>> Xem thêm: Bổ Phế Kiện Phế Vương