III. Vấn chẩn
Vấn chẩn là một phần trọng yếu của tứ chẩn, thông qua vấn chẩn gợi cho chẩn đoán chính xác. Nội dung chính của vấn chẩn gần giống như y học hiện đại, vừa phải giải thích triệu chứng đau hiện tại vừa phải hiểu được quá trình phát bệnh, nguyên nhân và khái quát quá trình bệnh nhân đã điều trị, phản ứng của bệnh sau uống thuốc hoặc châm. Khái quát bệnh sử và tập quán sinh hoạt, ăn uống, tình hình tư tưởng và gia đình… vấn chẩn có những đặc điểm riêng, y học xưa có người đặt thành bài ca thập vấn để khỏi quên thứ tự khám xét:
“Nhất vấn hàn nhiệt, nhị vận hãn
Tam vấn ẩm thực, tứ vận tiện
Ngũ vấn đầu thân, lục vấn phúc hung
Thất vấn tai, bát vấn khát, cửu vấn bệnh cũ
Thập vấn nhân”.
Ngoài ra, hỏi về uống thuốc, riêng nữ giới hỏi về kinh, đới thai sản, trẻ em vấn đề sởi đậu.
Vấn hàn nhiệt, hãn
Phải hỏi rõ có sốt hay không sốt, mức độ nặng nhẹ của sợ gió lạnh, sợ rét nóng, đặc biệt của phát sốt, có mồ hôi hay không có mồ hôi, tính chất nhiều ít thế nào?
Bệnh mới mắc phát sốt, sợ lạnh là biểu chứng ngoại cảm, sốt ít, sợ lạnh nhiều, không có mồ hôi là biểu chứng ngoại cảm phong hàn, nếu sốt cao, sợ lạnh ít, có mồ hôi là biểu chứng ngoại cảm phong nhiệt.
Lạnh rồi lại sốt, sốt rồi lại lạnh là chứng hàn nhiệt vãng lai, nếu thời gian phát bệnh ngắn kèm theo họng đắng, miệng khô, đầu choáng, mắt hoa, ngực sườn đầy tức là chứng “bán biểu bán lý”.
Phát sốt, không sợ lạnh, có mồ hôi, miệng khát, tiện bế là chứng lý thực nhiệt.
Bệnh mãn tính: thường bệnh nhân cố sốt nhẹ về chiều, ngực và lòng bàn tay, bàn chân nóng (ngũ tâm phiền nhiệt), gò má đỏ, môi khô, tự hãn là âm hư sinh nội nhiệt thường sợ lạnh, đoản khí vô lực, tự hãn là dương hư.
Vấn đề đầu, thân, ngực, bụng
Chủ yếu là hỏi về vị trí đau, tính chất đau và thời gian đau.
Đầu đau, chóng mặt, đau đầu liên tục, đau ở hai bên thái dương kèm theo phát sốt sợ lạnh thường là do ngoại cảm (cảm mạo), nếu lúc đau, lúc không có kèm theo huyễn vựng, không rét, không nóng thường là do chứng bệnh nội thương thuộc lý, nếu đau nửa đầu đa phần do nội phong hoặc huyết hư, đau đầu sáng sớm, khi mệt mỏi đau tăng thường do dương hư, đau đầu buổi chiều thường do huyết hư, đau đầu giữa đêm thường do âm hư. Đau đầu, huyễn vựng, mắt đỏ, miệng đắng là do can thương hỏa thịnh. Đầu choáng, tâm quí, khí đoản, vô lực thường do khí huyết đều hư. Đột nhiên nhức như căng đầu ra thuộc thực chứng, lâu ngày thuộc hư chứng. Đau nhức nặng như ghì xuống, như mặc giáp thường thuộc về chứng thấp.
Đau thân thể, toàn thân đau mỏi, phát sốt, sợ lạnh do ngoại cảm, đau thân thể lâu ngày đa phần là do khí huyết bất túc, phần lưng đau mỏi do thận hư, khớp tứ chi, cơ nhục, cân cốt đau mỏi, tê nhiều hoặc sưng khớp, đau di chuyển nhiều hoặc cố định phần nhiều do phong hàn thấp tý.
Đau ngực, đau ngực phát sốt, ho, nôn máu (nục huyết) phần nhiều phế ung thũng (dãn phế quản, u phế quản), đau ngực triều nhiệt, ho khan, ít đàm, trong đàm có dây huyết do phế lao thương (phế kết hạch), u phổi. Đau ngực hướng lan ra sau lưng và lên vai hoặc đau xương ức, cảm giác nặng vùng tim là hung tý (chú ý tâm giao thống), hiếp thống thường do can khái không thư thái (căng thẳng kéo dài).
Phúc thống: Chỉ đau bụng trên, hay oẹ hoặc nôn ra nước trong thuộc vị hàn, đau chướng bụng trên hay ợ chua, có thể do thực trệ, quanh rốn đau tức, lúc đau, lúc không, khi đau như có hòn cục nổi lên thường do giun đũa. Đau bụng phát sốt tiết tả hoặc hạ lợi (có máu), lỵ cấp hậu trọng phần nhiều do thực chứng thấp nhiệt. Đau bụng lâm râm, đại tiện lỏng nát, sợ lạnh, tứ chi lạnh phần nhiều là chứng hư hàn thấp. Nói chung đau đột ngột, dữ dội là thực, đau lâu là hư, đau sau khi ăn, bụng chướng là thực, sau khi ăn đau giảm, vị trí đau cố định, đau đớn kịch liệt, khi ấn đau tăng (cự án) là thực, còn đau âm ỉ, vị trí không cố định, khi ấn đau giảm hoặc thiện án là hư.
Vấn đề ăn uống (ẩm thực)
Phải hỏi bệnh nhân tỉ mỉ về cảm giác thèm ăn, lượng ăn, khẩu vị, phản ứng sau khi ăn và cảm giác khát. Người bệnh ăn uống bình thường chứng tỏ vị khí không tổn thương, không muốn ăn uống lại hay buồn nôn hay ợ là vị có tích trệ; ăn nhiều hay đói là vị thực hỏa (chú ý chứng tiêu khát), miệng khát, thích uống nước mát phần nhiều là vị nhiệt thương âm, miệng khát thích uống nước ấm nóng thường là do vị dương bất túc; miệng khát, không khát hoặc do biểu chứng chuyển vào lý hoặc do chứng lý dương hư hàn thịnh, miệng khô không muốn uống là tỳ hư thấp thịnh. Bệnh nhân đắng miệng là can đởm có nhiệt, miệng chua là trường vị tích trệ, trong miệng lở loét thường là tỳ có thấp nhiệt, miệng nhạt là hư chứng.
Vấn đề đại, tiểu tiện
Phải hỏi rõ số lần, tính chất có máu hay không có máu.
Đại tiện táo kết, khô ráo khó đi, phát sốt thuộc chứng nhiệt (thực chứng), bệnh lâu, mới đẻ, người già tiện bí kết thường thuộc chứng khí hư hoặc tân hao.
Đại tiện lỏng nát, trước đại tiện không đau bụng là do tỳ vị hư hàn, trước ngủ dậy (sáng sớm) đau bụng, ỉa lỏng (gọi là ngũ canh tiết) thường do thận dương hư, đại tiện lỏng như nước, phản xạ mót dặn, nóng ở giang môn là vị trường có nhiệt, đại tiện phân chua, bạc màu, nhiều bọt, bụng đau phúc tả, sau tả đau giảm là thực trệ.
Đại tiện nùng huyết “lỵ cấp hậu trọng”, bụng đau phát sốt là thấp nhiệt hạ lợi, đại tiện phân có giây máu, sắc tươi hồng là mới xuất huyết, đại tiện phân hồng đen là máu cũ.
Tiểu tiện lượng nhiều mà trong, trắng phần nhiều là hư hàn; trong trắng nhiều lần (phiền số) thậm chí đái són là khí hư. Tiểu tiện ít mà vàng thuộc nhiệt hoặc tiểu đục, đái buốt, tiểu khó khăn phần nhiều do thấp nhiệt.
Tiểu tiện nhiều về đêm hoặc trong giấc ngủ di niệu là thận hư, niệu cấp, nhiều lần, buốt, dắt, bài niệu khó khăn hoặc nước tiểu có máu, sa thạch phần nhiều do lâm chứng. Miệng khát uống nhiều, tiểu tiện nhiều, toàn thân gầy nhanh là tiêu khát (đái tháo đường). Đột nhiên phát sinh niệu bế, bàng quang đau nhiều, phát sốt là thực chứng, lượng nước tiểu giảm ít, thậm chí vô niệu, sắc mặt trắng bệch, đau thắt lưng, tay chân lạnh là hư chứng.
Vấn về giấc ngủ (thùy miên)
Phải hỏi rõ vào giấc ngủ khó hay dễ, buổi tối khó vào giấc ngủ, ăn kém, gầy gò vô lực, tâm quí kiện vong, tinh thần hoảng loạn là tâm tỳ lưỡng hư phần nhiều do ưu tư quá độ, hư phiền không ngủ được, triều nhiệt tự hãn, lưỡi đỏ, ít tân, mạch tế là âm hư. Trong trường hợp mất ngủ sau khi ốm nặng hoặc là người già khí huyết lưỡng hư, khí huyết hư thường dẫn đến mất ngủ. Đêm ngủ không yên giấc, thiếu ngủ, tâm phiền, miệng lưỡi sinh mụn nhọt, đầu lưỡi đỏ là tâm hỏa vượng thịnh, mất ngủ, hay mộng, đau đầu, miệng đắng, hay giận dữ, cáu gắt là can hỏa vượng thịnh. Trong mộng kinh sợ nhiều là đởm khí hư hoặc vị nhiệt. Mơ mộng nhiều, chi thể gầy gò, ngủ nhiều, giấc ngủ không sâu là khí hư, sau khi ăn mệt mỏi, muốn ngủ đa phần là tỳ khí bất túc. Sau khi ốm ngủ tốt là chính khí đã hồi phục. Mình nặng, mạch hoãn, ngủ nhiều là thấp thắng.
Vấn về tai ù
Thận can đởm có quan hệ chặt chẽ với tai, ù tai nhiều, đột ngột là can đởm hỏa vượng thực chứng, ù tai nhiều ngày kéo dài là thận hư, khí hư. Trong ôn bệnh xuất hiện tai ù là nhiệt tà thương âm, tai ù kèm theo tâm quí, đầu chóng là hư chứng, nếu kèm theo tức ngực, sườn đau, miệng đắng, đại tiện táo kết, hay nôn mửa đa phần thuộc thực chứng.
Thai phụ bệnh, ngoài đặc điểm vấn như trên, vẫn phải chú ý.
Người bệnh là nữ phải hỏi tỉ mỉ kinh nguyệt, đã kết duyên hay chưa (bao gồm dậy thì, chu kỳ, tính chất của kinh nguyệt nhiều hay ít, có hay không có thống kinh, mầu sắc khí vị bạch đới) và hỏi khả năng sinh dục (số lần có thai, đẻ, có khó đẻ hay không, xảy thai…).
Về kinh nguyệt: kinh gnuyệt lượng nhiều, đỏ thẫm mà đặc, miệng đắng, môi đỏ là huyết nhiệt, kinh huyết tím đen, có máu cục đa phần thuộc thực chứng. Kinh nguyệt kéo dài, kinh huyết lượng ít, đỏ nhợt mà loãng, sắc mặt vàng nhợt là huyết hư, nếu chi lạnh, mặt trắng là hàn thực, nếu huyết xám tím thành cục, bụng dưới đau đớn cự án hoặc chướng to là khí trệ huyết ứ. Kinh nguyệt huyết có mùi hôi là chứng nhiệt, có mùi tanh là chứng hàn. Bạch đới trong, lỏng mà tanh là hư hàn, vàng đặc mà hôi là thấp nhiệt. Sau đẻ sản dịch rong kinh kéo dài kèm theo bụng đau cự án là huyết ứ.
Đối với bệnh thiếu nhi đều phải hỏi rõ thời kỳ dậy thì (phát dục), tiền sử có bị đậu mùa, sởi hay không, sau cùng là chú ý đến ăn uống và nuôi dưỡng.
IV. Thiết chẩn
Bao gồm toàn bộ súc chẩn thân mình, tứ chi và xem mạch.
Thiết mạch (bắt mạch ở thốn khẩu): y học cổ truyền rất coi trọng khám mạch để chẩn bệnh, nhiều tài liệu ghi lại việc khám rất tỉ mỉ, hiện nay được chia ra hai mươi tám loại mạch khác nhau thường được sử dụng trong lâm sàng.
Phương pháp khám bệnh
Thường được thao tác ở chỗ đập của động mạch quay trên mặt trước khớp cổ tay của người bệnh (được gọi là mạch thốn khẩu), động mạch này được chia làm ba phần (bộ), bộ thốn, bộ quan và bộ xích. Bộ quan ở ngang mỏm châm xương quay, trên bộ quan là bộ xích, dưới bộ quan là bộ thốn. Trước khi khám mạch phải yêu cầu bệnh nhân thư thái tinh thần yên tĩnh, nếu vừa sau hoạt động, lao động nặng phải nghỉ ngơi rồi mới khám mạch. Khi chẩn mạch tay bệnh nhân ở tư thế ngửa thoải mái, bàn tay duỗi, thầy thuốc lần lượt đặt ngón tay giữa vào bộ quan, sau đó đặt ngón tay chỏ vào bộ thốn, và ngón tay nhẫn (ngón vô danh) vào bộ xích, khoảng cách của ba ngón tay phải linh hoạt, nếu người bệnh cao to, khoảng cách của ba ngón tay phải xa hơn với người thấp bé. Thốn khẩu của bệnh nhi mạch ngắn nên cả ba bộ chỉ có thể dùng một ngón cái đặt ở bộ quan, còn bên phải, bên trái để đánh giá bộ thốn và bộ xích (cũng chỉ dùng một ngón cái), nếu bệnh nhi trên 8 tuổi, có thể thích hợp chẩn mạch (một ngón tay cái dùng cho cả ba bộ). Khi chẩn mạch quan trọng là lực ấn của các ngón tay, phải khám ở ba động tác (tam cử) sơ án để các ngón tay tiếp xúc với mặt da, trung án là ấn nhẹ, trọng án là ấn mạnh sát xương quay. Sau khi khám mạch chung ở ba động tác (tam cử) thì xem vi khán từng bộ mạch, y sinh phải tập trung vào cảm giác tinh tế ở các đầu ngón tay, từ các đầu ngón tay biết được sóng mạch nổi chìm (phù, trầm), mạch yếu vơi đầy. Do ba bộ thốn quan xích có giá trị chẩn mạch tương ứng với các tạng phủ khác nhau và khác nhau cả bên phải bên trái. Mạch bên trái (bên tả) thứ tự ba bộ thốn quan xích là tương ứng với tạng tâm, can, thận, còn bên mạch phải thứ tự ba bộ thốn quan xích là tương ứng với ba tạng phế, tỳ và mệnh môn hỏa. Người xưa cho rằng gợn sóng khí huyết, nó có thể đánh giá trung thành hoạt động của tạng phủ (do tạng phủ có tương quan biểu lý với nhau).
Đặc điểm của mạch và chủ bệnh của mạch
Trong phần này sẽ giới thiệu những hình mạch thường gặp trên lâm sàng, đặc điểm của hình mạch về tần số nhanh chậm, biên độ mạch cao thấp, sóng mạch mạnh hay yếu, hình thái mạch to hay nhỏ… bình thường tần số mạch đều đặn 4 – 5 lần trong một nhịp thở (nhất tức) gần tương đương với 72 – 80 lần trong một phút, không phù, không trầm, không nhỏ, đều đều hoà hoãn gọi là mạch hoãn, nhưng nếu khí huyết có thấp trở ngại cũng có thể thấy mạch hoãn, cũng có thể thấy mạch hoãn kèm theo phù, hoãn kèm theo trầm, hoãn kèm theo đại hoặc tiểu đó là mạch bệnh lý.
Mạch phù và mạch trầm: là hai chỗ mạch cao thấp tương phản, mạch phù là mạch nổi cao, để tay tiếp xúc với mặt da đã thấy mạch đập rõ, dùng lực tây ấn mạnh thấy sóng mạch giảm yếu, mạch trầm là mạch chìm sâu, để tay tiếp xúc mặt da không thấy mạch đập, ấn nhẹ cũng không thấy mạch đập, phải ấn mạnh mới thấy rõ mạch đập.
Biểu hiện bệnh lý của mạch phù: bệnh thuộc biểu chứng, mạch phù mà có lực là biểu thực, phù mà không có lực là biểu hư. Nếu như bệnh ngoại cảm mà sợ lạnh, phát sốt không có mồ hôi, mạch phù khẩn là chứng biểu thực hàn, còn bệnh ngoại cảm phát sốt có mồ hôi, sợ gió, mạch phù nhược là chứng biểu hư hàn, với những bệnh nhân có thể chất hư nhược, khi bị bệnh ngoại cảm mạch thường không phù. Thời kỳ đầu của các bệnh truyền nhiễm cấp tính thường có mạch phù.
Biểu hiện bệnh lý của mạch trầm: bệnh thuộc lý chứng, trầm mà có lực là lý thực, trầm mà có lực là lý hư, nếu ho (khái thấu) vô lực, đàm lỏng trắng, khí đoản, sắc mặt trắng, ăn ít, gầy gò, mạch trầm nhược là phế khí hư thuộc về chứng khí hư.
Mạch trì và mạch sác: đặc điểm hai loại trì và sác là hai loại mạch nhanh chậm tương phản mạch trì nhất tức (một lần thở) có ba lần mạch đập “nhất tức là tam lai thị mạch trì” tương đương với mỗi phút 90 lần trở lên.
Biểu hiện bệnh lý của mạch trì: là chứng hàn, phù mà trì là biểu hàn, trầm mà trì là lý hàn, trì mà có lực là thực chứng, vô lực là hư hàn thuộc về lý chứng.
Biểu hiện bệnh lý của mạch sác: là chứng nhiệt, sác mà có lực là dương thịnh, sác mà có lực là âm hư nội nhiệt, nếu như mặt đỏ, họng khô, tâm trạng phiền nhiệt, mạch sách có lực là tâm hoả vượng thuộc chứng dương thịnh. Mồm lở loét, sưng đau, ăn không tiêu, mạch tế sách là vị âm hư, hư hoả thượng viêm thuộc hư nhiệt.
Mạch hư và mạch thực: đặc điểm mạch hư và mạch thực là hai loại mạch có lực đập mạnh yếu tương phản.
Mạch hư là mạch phù, cả trung, trọng án đều vô lực, mạch thực là phù, trung, trọng án đều có lực. Mạch hư chủ bệnh khí huyết đều hư, mạch hư phù là thương thử.
Mạch thực chủ bệnh chứng thực, sốt cao, trằn trọc không yên, đại tiện bí kết, mạch thực mà hoạt là ngoan đàm ngưng kết tụ, thực mà huyền là can khí uất kết.
Mạch hoạt và mạch sáp: là hai trạng thái mạch tương phản.
Mạch hoạt là sóng mạch đi lại lưu lợi dưới tay có cảm giác như hạt trâu lăn, mạch sáp là mạch đi lại sáp trệ (dung lai nhi mạt tức lai, dung khí nhi mạch tức khứ) nghĩa là sóng mạch muốn tới lại không tới cùng, muốn đi mà không đi hết. ứng với điện tâm đồ mạch sóng có hiện tượng dẫn truyền bị trở lại, mạch đồ cũng có biểu hiện to nhỏ không đều.
Mạch hoạt thường gặp trong chứng đàm thấp, nếu như tiếng ho khàn, đàm nhiều trắng, dễ khạc, tức ngực, ăn kém, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch hoạt đó là chứng đàm thấp khái thấu, khi có thai thờng thấy mạch hoạt.
Mạch sáp thường gặp trong thiếu máu, khí trệ huyết ứ.
Mạch hồng và mạch tế: đặc điểm mạch tượng, mạch hồng và mạch tế là hai loại mạch tượng to, nhỏ và mạch yếu tương phản nhau.
Mạch hồng, mạch to, sóng mạch mạnh, cuồn cuộn như hồng thủy phù và đàm rõ, nmạch tế là mạch nhỏ như sợi dây, lực mạch không mạnh, khi ấn nặng tay (trọng án) mới thấy mạch đập.
Mạch hồng thường gặp trong trạng thái nhiệt thịnh, nếu như bệnh ôn nhiệt phần khí có mạch hồng đại nhiệt thịnh, sốt cao, phiền khát, đại hãn, mạch hồng đại, như vậy mạch hồng đại thường gặp trong chứng nhiệt thịnh. Nhiệt thịnh thương âm, khi âm hư ở trong thì dơng phù ở ngoài cũng có thể thấy mạch hồng. Ở thời kỳ toàn phát của các bệnh truyền nhiễm thường thấy mạch hồng.
Mạch tế thường gặp trong hư chứng hư lao, suy nhược cơ thể , phần nhiều thấy mạch tế hoặc khi thấp khí ở dưới, khi thấp tà trở ngại mạch đạo cũng có thể thấy mạch tế, như vậy mạch tế cũng có thể thấy trong thực chứng. Ví dụ: sắc mặt trắng bủng, môi lưỡi trắng nhợt, đầu choáng mắt hoa, tâm quí thấy mạch tế là huyệt hư. Khi đại tiện có nhầy mũi, mệt mỏi, ăn kém, bụng chướng, tứ chi không ấm, mạch đa phần là huyền tế mà hoãn thường gặp trong hàn thấp ly tật, bệnh thuộc thực chứng.
Mạch huyền và mạch khẩn: có đặc điểm giống nhau, sóng mạch liền một mạch ở cả ba bộ thốn quan xích, cảm giác dưới ba đầu ngón tay sóng mạch đi khẩn trương, khác nhau là mạchk huyền thấy căng khi ấn, mạch khẩn khi ấn không căng, lực mạch khẩn cấp cảm thấy có lực ở dưới tay, lực của mạch huyền không cương cấp như của mạch khẩn, trên hình mạch đồ mạch khẩn có sóng mạch cao hơn, to hơn mạch huyền.
Mạch khẩn thường gặp ở chứng hàn, chứng đau, khi ngoại cảm phong hàn thấy mạch phù khẩn, khi lý hàn có mạch trầm khẩn, ví dụ: trong chứng hàn tý (thống tý), các khớp của chi thể đau mỏi dữ dội, đau cố định khi thấy sốt đau giảm, đa phần thấy mạch huyền khẩn.
Mạch huyền thường gặp trong chứng thống (đau), phong chứng ngược tật và đàm ẩm, âm hư dương vượng đa phần thấy mạch huyền, ví dụ: trong chứng cao huyết áp (can dương thiên vượng) thường là mạch huyền có lực, nhóm can âm bất túc thường là mạch huyền tế, trong chứng can vị bất hòa thường thấy mạch huyền, trong các bệnh về gan, loét hành tá tràng, viêm túi mật, kinh nguyệt không đều, ung thư cổ tử cung, bệnh thuộc tạng thận đều có thể thấy mạch huyền.
Ở trên đã nếu 12 loại mạch thường gặp trên lâm sàng, sau đây là một số loại mạch ít gặp trên lâm sàng.
Mạch súc, mạch kết, mạch đại:
Mạch súc là mạch hoà hoãn, không có qui luật, đôi lúc hẫng nhịp, không đều, chủ mạch của chứng thực nhiệt, khí trệ huyết ứ.
Mạch kết là mạch hoà hoãn, không có qui luật, đôi khi không đều, có nhịp hẫng chủ mạch của chứng âm thịnh, khí kết, hàn đàm huyết ứ.
Mạch đại là mạch nhanh chậm như thường nhưng tự ngừng có qui luật, đập lại sau khi ngừng nhịp, chủ mạch của chứng tạng khí suy vi hoặc do kinh sợ, chấn thương, ngoài ra các chứng nôn, ỉa lỏng nhiều cũng có thể thấy mạch đại.
Ba loại mạch súc, kết, đại có thể thấy các loại bệnh ở tạng tâm, ví dụ: trong thấp tim, hẹp ống thông động mạch, thiếu máu tâm cơ.
Mạch nhu là mạch phù nhỏ mà mềm, ấn nhẹ thấy mạch đập mềm như màng nước, ấn mạnh thì thấy mất mạch. Mạch nhu chủ bệnh của chứng thấp, chứng hư, ví dụ: thủy thũng và khí huyết đều hư nhược.
Mạch nhược là mạch trầm nhỏ mà mềm, chủ bệnh của chứng khí huyết bất túc.
Mạch vi là mạch rất nhỏ, rất mềm, như có, như không có mạch, khó đếm, chủ bệnh của chứng đại hư, các triệu chứng nguy kịch, bệnh nặng lâu ngày.
Mạch to (đại) mạch có hình to hơn bình thường, nhưng sóng mạch không căng, không trào dâng như mạch hồng, chủ bệnh của chứng tà thịnh, mạch to mà không có lực là chứng hư.
Mạch khâu là mạch phù đại mà rỗng, sờ mạch chỉ thấy thành mạch, không thấy sóng mạch ở giữa như ấn vào dọc hành, chủ bệnh của chứng mất máu nhiều, thiếu máu.
Trên lâm sàng thường đa phần là kiêm mạch còn ít thấy đơn thuần một loại mạch. Qua thực tế thường chia làm ba loại sau đây.
Loại mạch thứ nhất: xuất hiện đơn thuần một loại mạch, còn loại mạch thứ hai và ba là kiêm mạch.
Mạch kiêm thường thấy: mạch phù sác, phù hoãn, phù khẩn, trầm trì, trầm huyền, trầm tế, huyền tế, tế sác, hoạt sác, huyền tế sác…chủ bệnh của mạch kiêm tương ứng với các loại mạch tổng hợp chủ bệnh.
Mạch trầm thể hiện bệnh ở lý, mạch trì chủ hàn, nếu trầm đi với trì là lý hàn.
Mạch tượng xuất hiện đơn độc ở một số phần khi bị bệnh. Ví dụ: đau đầu thấy bộ thốn mạch phù…
Trong quan hệ giữa mạch và bệnh có thể thấy bệnh nào mạch ấy, nhưng cũng có thể thấy nhiều lạoi mạch khác nhau ở một bệnh, ví dụ: mạch huyền chủ về đau, về phong, về ngược tật còn chứng hàn thường thể hiện mạch trì hoặc mạch khẩn.
Những điểm cần chú ý khi chẩn mạch cụ thể.
Biểu hiện mạch bình thường: mạch hoãn là một nhịp thở có 4 – 5 lần mạch đập, không phủ, không trầm, đều đều hoà hoãn, tuy nhiên do ảnh hưởng hoàn cảnh bên ngoài với bên trong của từng cơ thể có thấy một số biến đổi sinh lý: sau khi ăn mạch có lực hơn, sau khi vận động mạnh mạch thường hồng sác hoặc sau uống rượu mạnh phần nhiều là sác, lao động mạch đại có lực, vận động viên thể thao thường có mạch trì, thường có tới 50% người bình thường mạch thiên về trầm tế, và một số người có mạch phù đại. Phụ nữ thường có mạch hơi tế nhược, khi hành kinh thường mạch ở bộ quan bên trái hồng hoặc trì, mạch trẻ con thường nhanh, ở trẻ 5 tuổi trở xuống một nhịp thở có thể tới 6 lần mạch đập cũng là bình thường. Mạch người già thường cứng chắc hơn (xơ), một số người do vị trí giải phẫu bẩm sinh, động mạch quay không ở trong rãnh quay mà ở phía sau ngoài gọi là “mạch phản quan” cũng là bình thường.
Người xưa thường có ba căn cứ để phân biệt giữa mạch bình thường và mạch bệnh lý đó là “vị, thần, căn”.
Mạch không phù, không trầm, đều đều hoà hoãn là vị khí tốt (hay là có bị khí).
Sóng mạch đến nhu hoà, bên trong có lực là mạch có thần.
Khám mạch ở cử trầm (ấn các ngón tay sát xương) mạch vẫn đập rõ là vì mạch hữu căn (có rễ).
Thường mạch hữu căn, hữu vị, hữu thần là mạch tốt, con người khoẻ mạnh, khi bệnh nghiêm trọng hoặc sau bệnh thoái lui cũng thường phải dựa vào ba loại căn cứ này để suy đoán và tiên lượng tốt hay không tốt.
Hai mươi tám loại mạch là trải qua quá trình nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của y học cổ truyền phương đông nói chung và y học dân tộc Việt Nam nói riêng, trong khi ứng dụng vào chẩn trị có thể tóm lược trên các mặt sau đây:
Về đại thể đều có quan niệm giống nhau, mạch thường là do các yếu tố: vị trí, tần số, nhịp, cường độ, biên độ, hình thái quyết định, nói chung vị trí mạch đập nông hay sâu có thể liên hệ phù hay trầm, từ tần số nhịp đập của mạch có thể liên hệ với hư, thực, từ hình thái mạch đập có thể liên hệ với mạch huyền, hồng, hoạt, vi, sáp, từ nhịp đập của mạch đều hay hẫng nhịp không đều có thể liên hệ với mạch súc, mạch kết, mạch đại…
Đối chiếu mạch với bát cương trên đại thể có thể xếp tương ứng:
- Mạch phù là biểu chứng, mạch trầm là lý chứng
- Mạch sác là nhiệt chứng, mạch trì là hàn chứng
- Mạch có lực là thực chứng, mạch vô lực là hư chứng
Thông qua phân tích sáu loại mạch trên có thể kết luận tình hình mạch yếu xu thế chung của chính khí và tà khí, đưa đến tổng cương “âm dương”.
Đối chiếu giữa mạch với chứng bệnh tương ứng, có thể khái quát quy luật chung là mạch và chứng là tương hợp, chứng nào có mạch ấy, tuy nhiên có một số ít trường hợp không tương ứng giữa mạch tượng và triệu chứng bệnh. Như vậy, việc bỏ mạch lấy chứng, hay bỏ chứng lấy mạch cần phải dựa trên cơ sở phân tích toàn diện những yếu tố chính quyết định trong chẩn đoán.
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐÔNG Y DƯỢC QUANG MINH
- Địa chỉ: Liên Bạt, Ứng Hoà, Hà Nội
- Điện thoại:1900 636 891
- Email: DongYDuocQuangMinh@gmail.com
- Website: DongYQuangMinh.vn