Cây Cứt Qụa

cây cứt quạ

Tên khoa học: Gymnopetalum cochinchinense (Lour.) Kurz

Tên đồng nghĩa: Bryonia cochinchinensis Lour, Gymnopetalum chinense (Lour.) Merr.

Tên gọi khác: Qụa quạ.

Họ: Bí (Cucurbitaceae)

Công dụng: làm rau ăn, trị ho có đờm.

>>> Xem thêm: Cỏ Chét Ba

1. Mô tả

Cây thảo có thân mọc bò, dài 1 – 2m, có cạnh và khía rãnh, lông rất ngắn. Tua cuốn đơn.

Lá mọc so le, hình 5 cạnh, đôi khi chia 3 thùy, dài 4 – 6 cm, rộng 3 – 5 em, gốc hình tim rõ, đầu nhọn, mép uốn lượn và khía răng, phiến lá có lông cứng, xen lẫn những hạch nhỏ, cuống lá có lông dài 3 – 4 cm.

Cụm hoa đực mọc ở kẽ lá thành 2 cụm, một cụm mang 1 hoa có cuống ngắn, cụm kia có 3 – 8 hoa có cuống dài; đài có ống 5 răng, phủ lông mịn, tràng 5 cánh, màu trắng, loe hình bánh xe, nhị dính ở chỗ phình của ống tràng, chi nhị rất ngắn.

Cụm hoa cái có 1 hoa ở kẽ lá, dải có răng ngắn hơn ở hoa đực, bầu có lông.

Quả màu đỏ, dài 5 cm, thót lại ở gốc, đầu có mũi nhọn, có 1 sống dọc, hạt nhiều, màu nâu.

2. Phân bố, sinh thái

Chi Gymnopetalum Arn. có 2 loại ở Việt Nam là cây cứt quạ và loài G.integrifolium (Roxb.) Kurz. Cây cứt quạ phân bố rải rác khắp các tỉnh miền núi từ Hà Giang, Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn,… đến các tỉnh ở Tây Nguyên. Trên thế giới, cây được ghi nhận có ở Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Ấn Độ.

Cứt quạ là cây ưa ẩm, ưa sáng và thường thấy trên các nương rẫy, hoặc ven rừng.

Bộ phận dùng:

Lá, rễ.

3. Tính vị, công năng

Cây cứt quạ có vị đắng, tính lạnh, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, tiêu độc, thoái ban, bài nùng, trừ đờm, chỉ khải.

4. Công dụng

Toàn cây cứt qua được dùng để cắt cơn ho có đờm khi có bệnh về phổi. Ngày dùng 30 – 60g sắc uống.

Ở Bạc Liêu, Cà Mau, phụ nữ sau khi đẻ thường dùng để phòng ngừa bệnh tật.

Cành lá non để làm rau, luộc hoặc nấu canh ăn.

Quả có độc, nhưng khi còn non có thể ăn được. Lá cũng làm mồi để câu cá.

Ở Ấn Độ, nhân dân dùng rễ tươi cây cứt quạ nghiền nát, hoà với ít nước nóng già, chà xát lên cơ thể ở chỗ đau hoặc xát vào chân tay bị teo. Nếu là rễ khô, nghiền thành bột, rồi cũng trộn với nước nóng già và chà xát như trên. Nước sắc lá để giải độc khi bị ngộ độc và chống co giật sau khi sẩy thai. Lá tươi, rửa sạch, ép lấy nước, nhỏ vào mắt để chữa đau mắt. Toàn cây là một thành phần của một bài thuốc để dùng cho phụ nữ sau khi đẻ [Chopra et al., 1998, Supplement to glossary of ind. Med. Plants, NiSC – New Delhi, p.34).

Ở Malaysia, khi bị ngộ độc quả chính của cây cắt quạ, người ta cũng dùng nước sắc lá cây uống để giải độc (quả xanh cây cứt qua có thể ăn được) và chữa co giật sau khi sẩy thai.

Nguồn: Theo Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

>>> Xem thêm: Bổ Phế Kiện Phế Vương

 

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x